Hãy yêu cầu bồi thường nếu quyền và lợi ích của bạn bị xâm hại.
THẾ NÀO LÀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG?
“Theo BLDS Điều 584 khoản 1. “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”.
Gọi là thiệt hại ngoài hợp đồng, bởi thiệt hại gây ra không phải do hệ quả của việc thực hiện một nghĩa vụ theo hợp đồng. Còn trạng thái tâm lý của người chịu trách nhiệm thì như nhau trong đại đa số trường hợp, nghĩa là muốn thực hiện hành vi nhưng không muốn chịu trách nhiệm.
Cá biệt, có một số trường hợp luật quy trách nhiệm không phải do hành vi nào đó của người chịu trách mà do có một sự việc xảy ra và người này phải chịu trách nhiệt của pháp luật. Ví dụ điển hình là trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật hoặc do Công trình xây dựng đổ sập vì xuống cấp gây ra.
NGUYÊN TẮC XÁC LẬP TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG.
Theo BLDS Điều 584 khoản 1, người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản quyền và lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
Điều 584 BLDS năm 2015 không nhắc đến yếu tố lỗi, chỉ cần có thiệt hại, có hành vi gây thiệt hại và có mối liên hệ nhân quả giữa hành vi đó và hậu quả thiệt hại, thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại được quy kết. Nói cách khác, lỗi của người có hành vi gây thiệt hại cho người khác trong khuôn khổ áp dụng BLDS năm 2015 là lỗi suy đoán, mặc định cho đến khi có bằng chứng ngược lại.
Nhắc lại rằng sự kiện bất khả kháng, theo định nghĩa tại Điều 156 khoản 1, là sự kiện xảy ra một cách khách quan, không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép. Còn lỗi của bên bị thiệt hại, trong logic của chế độ hiện hành về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, không thể là lỗi mặc định, suy đoán mà phải được chứng minh.
Nói rõ hơn, bên gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm một cách đương nhiên và chỉ được giải thoát khỏi trách nhiệm một khi chứng minh được rằng lỗi hoàn toàn thuộc về bên bị thiệt hại hoặc do sự kiện bất khả kháng. Cần nhấn mạnh rằng để giải thoát, bên gây thiệt hại phải chứng minh bên bị thiệt hại hoàn toàn có lỗi; nếu bên gây thiệt hại chỉ chứng minh được rằng mình không có lỗi, trong khi bên bị thiệt hại cũng không có lỗi, thì bên gây thiệt hại vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường.
CHỦ THỂ QUYỀN YÊU CẦU BỒI THƯỜNG.
Người bị thiệt hại.
Người bị thiệt hại trước hết là người trực tiếp gánh chịu hậu quả của hành vi gây thiệt hại. Một căn nhà bị đập phá, chủ căn nhà bị đập phá là người bị thiệt hại. Có trường hợp người bị thiệt hại không trực tiếp chịu sự tác động của hành vi gây thiệt hại, nhưng phải gánh chịu hậu quả của hành vi đó như một điều tất yếu. Trong trường hợp này, người bị thiệt hại cũng có quyền yêu cầu bồi thường đối với người thực hiện hành vi đó.
Ví dụ điển hình là người có quyền yêu cầu cấp dưỡng đối với người có tính mạng bị xâm hại do người có nghĩa vụ cấp dưỡng chết mà người có quyền yêu cầu cấp dưỡng mất nguồn trợ cấp. Trong trường hợp thiệt hại xảy ra như một phần trong chuỗi sự kiện liên kết với nhau một cách không thể khác được, thì người bị thiệt hại cũng được bồi thường.
Người thừa kế.
Có trường hợp người bị thiệt hại chết mà việc bồi thường vẫn chưa được thực hiện. Người thừa kế của người bị thiệt Tại hội đương nhiên có quyền thừa kế đối với quyền yêu cầu bồi h thường và thực hiện quyền này với tư cách đó, áp dụng Điều 614 BLDS về kế tục quyền và nghĩa vụ do thừa kế di sản.
Tổ chức bảo hiểm.
Trong trường hợp người bị thiệt hại được bảo I hiểm đối với thiệt hại xảy ra, thì một khi các điều kiện để bên bảo hiểm thực hiện nghĩa vụ chi trả hội đủ, bên được bảo hiểm sẽ nhận được tiền đền bù. Số tiền này được coi như khoản bù đắp thiệt hại là đối với người bị thiệt hại. Người này không được quyền yêu cầu người gây thiệt hại bồi thường.
CHỦ THỂ CỦA TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG.
Chủ thể là pháp nhân.
Theo Điều 597, pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do người của mình gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao. Cũng theo, Điều 598 đề cập đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra, xác định trách nhiệm này được quy kết theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
Về phần mình, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước quy định tại Điều 60 rằng kinh phí bồi thường được trích từ ngân sách của Nhà nước. Như vậy pháp nhân chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người – hành công vụ gây ra là pháp nhân Nhà nước (pháp nhân tư), cho dù người thi công vụ thuộc một cơ quan nhà nước nào đó có thể được thừa nhận có tư cách pháp nhân độc lập. Còn pháp nhân khác không có yếu tố nhà nước, được gọi là pháp nhân tư.
Chủ thể là cá nhân.
Theo Nguyên tắc, điều chắc chắn, chủ thể là cá nhân phải có đầy đủ năng lực hành vi phải tự mình chịu trách nhiệm về những hành vi của mình mà gây thiệt hại cho người khác. Theo Điều 586 khoản 1, người từ đủ 18 tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường.
Thế nhưng, trong rất nhiều trường hợp người gây thiệt hại lại là người không có năng lực hành vi hoặc mất năng lực hành vi hoặc không nhận thức được hành vi của mình nhưng không bị đặt trong tình trạng mất năng lực hành vi. Bên cạnh các quy định mang tính ngoại lệ áp dụng cho trường hợp người đã thành niên mà có vấn đề về thể chất hoặc tâm thần dẫn đến sự hạn chế về khả năng nhận thức, luật còn có các quy định áp dụng cho trường hợp người gây thiệt hại là người chưa thành niên.
NGUYÊN TẮC VÀ TRƯỜNG HỢP ĐẶC BIỆT.
Trên nguyên tắc người có trách nhiệm bồi thường đồng thời cũng là người thực hiện việc bồi thường. Tuy nhiên, điều này có thể được thay thế bằng những giải pháp đặc thù trong trường hợp đặc thù.
Người thừa kế. Trường hợp người có trách nhiệm là cá nhân chế hoặc pháp nhân có trách nhiệm chấm dứt sự tồn tại, thì cá nhân, tổ chức có tư cách pháp nhân kế thừa sẽ đảm nhận trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong khuôn khổ thừa kế các quyền và nghĩa vụ do cá nhân chết, pháp nhân chấm dứt để lại theo quy định của luật. Trong trường hợp thừa kế, thì điều cần thiết là người thừa kế phải không sử dụng quyền từ chối nhận di sản theo BLDS Điều 620.
Tổ chức bảo hiểm. Có trường hợp người gây thiệt hại được bảo hiểm trách nhiệm. Một khi các điều kiện bảo hiểm trách nhiệm hội đủ, thì tổ chức bảo hiểm có trách nhiệm chi trả. Về mặt lý thuyết, cơ chế thực hiện trách nhiệm vận hành như sau: người bị thiệt hại yêu cầu người gây thiệt hại bồi thường, sau đó, người gây thiệt hại yêu cầu tổ chức bảo hiểm chi trả cho mình theo hợp đồng bảo hiểm.
TRÁCH NHIỆM LIÊN ĐỚI. TRƯỜNG HỢP NHIỀU NGƯỜI CÙNG GÂY THIỆT HẠI.
Có trường hợp trách nhiệm được quy kết cho nhiều người, do cùng gây thiệt hại. Luật quy định rằng trên nguyên tắc, mỗi người gây thiệt hại đều phải chịu trách nhiệm. Tuy nhiên, đối với người bị thiệt hại, trách nhiệm quy kết mang tính tập thể và trên cơ sở liên đới. “Điều 587. Bồi thường thiệt hại do nhiều người cùng gây ra:
Trường hợp nhiều người cùng gây thiệt hại thì những người đó phải liên đới bồi thường cho người bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường của từng người cùng gây thiệt hại được xác định tương ứng với mức độ của mỗi người, nếu không xác định được mức độ lỗi thì họ phải bồi thường thiệt hại theo phần bằng nhau”.
Luật không làm rõ khái niệm nhiều người cùng gây thiệt hại. Trong trường hợp hành vi gây thiệt hại có dấu hiệu cấu thành tội phạm hình sự, thì việc xác định những người cùng gây thiệt hại dựa vào khái niệm đồng phạm. Có thể thừa nhận rằng tất cả những người nào bằng hành vi của mình góp phần trực tiếp vào việc gây thiệt thì bị coi là những người cùng gây thiệt hại. Ví dụ điển hình, với trường hợp nhiều người tham gia đánh một người.
CÁC NGUYÊN TẮC BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI.
Theo đúng nguyên tắc công bằng số học, là nguyên tắc nền tảng đặt cơ sở cho chế độ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, thì thiệt hại đến đâu phải được bù đắp đến đó. Luật Việt Nam, cũng như luật các nước, thừa nhận giải pháp bồi thường toàn bộ thiệt hại. Tuy nhiên, giải pháp mang tính nguyên tắc này có thể được chỉnh sửa trong một số trường hợp ngoại lệ. |
Điều 585. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại
- Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
- Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình.
- Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì bên bị thiệt hại hoặc bên gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường.
- Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra.
- Bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt hại xảy ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại cho chính mình.
THỂ THỨC BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI.
Quyền yêu cầu bồi thường phát sinh – vào thời điểm thiệt hại xảy ra. Đó cũng là thời điểm xác lập trách nhiệm bồi thường. Bản án của Toà án không phải là căn cứ để xác định thời điểm phát sinh quyền yêu cầu bồi thường: bản án chỉ xác nhận một quyền yêu cầu bồi thường tồn tại ngay từ thời điểm xảy ra sự kiện dẫn đến việc xác lập trách nhiệm.
Tương ứng với quyền yêu cầu bồi thường là nghĩa vụ bồi thường của người chịu trách thiệt hại. Nghĩa vụ này, như đã biết, có thời hiệu để bị buộc phải thực hiện bằng một bản án của toà án, là 3 năm kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc buộc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Một khi có bản án của toà án buộc thi hành nghĩa vụ bồi thường, thì thời hiệu thi hành bản án là 2 năm kể từ ngày nghĩa vụ đến hạn thực hiện theo bản án có hiệu lực pháp luật (Luật Thi hành án Dân sự Điều 30).
Trong trường hợp các bên thoả thuận với nhau về việc bồi thường thì người có nghĩa vụ bồi thường chỉ bị coi là chậm thực hiện vụ, nghĩa là vi phạm nghĩa vụ theo Điều 351 khoản 1 và có thể chịu chế tài bổ sung (như trả lãi quá hạn) một khi đã đến hạn thực hiện nghĩa vụ không được thực hiện hoặc không được thực hiện đầy đủ.
Trong trường hợp người bị thiệt hại thực hiện quyền khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại, thì người có nghĩa vụ bồi thường chỉ bị coi là chậm thực hiện nghĩa vụ bồi thường và chịu chế tài bổ sung (như lãi quá hạn) một khi đã được cơ quan thi hành án đốc thúc thực hiện nghĩa vụ trong một thời gian mà vẫn không chịu thực hiện nghĩa vụ đến khi hết thời hạn đó.
Trên đây là những phân tích, tư vấn của đội ngũ pháp lý Luật Thiên Thanh về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Nếu bạn có bất cứ câu hỏi nào cần giải đáp. Hãy liên hệ ngay với chúng tôi.