Các trường hợp phải tiến hành hòa giải trước phiên Tòa Dân sự.(hòa giải trước phiên tòa sơ thẩm) được ghi nhận tại Chương XIII Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Đây là một chế định quan trọng, là hoạt động do Tòa án tiến hành nhằm giúp đỡ các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án dân sự, vừa đảm bảo tiết kiệm chi phí, thời gian cho Nhà nước và công dân, vừa giải quyết triệt để các mâu thuẫn giữa các đương sự… Sau đây, chúng tôi xin trình bày một số thông tin liên quan đến các trường hợp phải tiến hành hòa giải trước phiên tòa dân sự.
1.Hòa giải là gì?
Theo quy định tại Điều 10 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này. Trong đó, hòa giải là thủ tục bắt buộc trong thời hạn chuẩn bị xét xử. Tuy nhiên, việc không được hòa giải và không tiến hành hòa giải được trong giai đoạn chuẩn bị xét xử không làm mất đi quyền tự thỏa thuận, định đoạt của các đương sự.
2.Nguyên tắc tiến hành hòa giải.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 205 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, việc hòa giải được tiến hành theo các nguyên tắc sau đây:
- Tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự, không được dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, bắt buộc các đương sự phải thỏa thuận không phù hợp với ý chí của mình;
- Nội dung thỏa thuận giữa các đương sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
3.Các trường hợp vụ án dân sự không được hòa giải.
Theo Điều 206 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, những vụ án dân sự không được hòa giải gồm:
- Yêu cầu đòi bồi thường vì lý do gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước.
- Những vụ án phát sinh từ giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của luật hoặc trái đạo đức xã hội.
4.Các trường hợp vụ án dân sự không tiến hành hòa giải được
Theo quy định tại Điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, những vụ án dân sự không tiến hành hòa giải được bao gồm:
- Bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt.
- Đương sự không thể tham gia hòa giải được vì có lý do chính đáng.
- Đương sự là vợ hoặc chồng trong vụ án ly hôn là người mất năng lực hành vi dân sự.
- Một trong các đương sự đề nghị không tiến hành hòa giải.
Vụ án dân sự không được hòa giải.
- Yêu cầu đòi bồi thường vì lý do gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước.
- Những vụ án phát sinh từ giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của luật hoặc trái đạo đức xã hội.
5.Thành phần tham gia hòa giải.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 209 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, thành phần phiên hòa giải bao gồm:
- Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải;
- Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên hòa giải;
- Các đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của các đương sự;
- Đại diện tổ chức đại diện tập thể lao động đối với vụ án lao động khi có yêu cầu của người lao động, trừ vụ án lao động đã có tổ chức đại diện tập thể lao động là người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho tập thể người lao động, người lao động. Trường hợp đại diện tổ chức đại diện tập thể lao động không tham gia hòa giải thì phải có ý kiến bằng văn bản;
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (nếu có);
- Người phiên dịch (nếu có).
Việc hòa giải là nhằm giúp cho các đương sự thực hiện quyền tự định đoạt của mình và làm cho việc giải quyết vụ án đạt hiệu quả cao hơn.
6.Thủ tục hòa giải.
Theo quy định tại khoản 4 Điều 210 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, thủ tục tiến hành hòa giải được thực hiện như sau:
Thẩm phán phổ biến cho các đương sự về các quy định của pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án để các đương sự liên hệ đến quyền, nghĩa vụ của mình, phân tích hậu quả pháp lý của việc hòa giải thành để họ tự nguyện thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án;
Nguyên đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trình bày nội dung tranh chấp, bổ sung yêu cầu khởi kiện; những căn cứ để bảo vệ yêu cầu khởi kiện và đề xuất quan điểm về những vấn đề cần hòa giải, hướng giải quyết vụ án (nếu có);
Bị đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn, yêu cầu phản tố (nếu có); những căn cứ để phản đối yêu cầu của nguyên đơn; những căn cứ để bảo vệ yêu cầu phản tố của mình và đề xuất quan điểm về những vấn đề cần hòa giải, hướng giải quyết vụ án (nếu có);
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn, bị đơn; trình bày yêu cầu độc lập của mình (nếu có); những căn cứ để phản đối yêu cầu của nguyên đơn, bị đơn; những căn cứ để bảo vệ yêu cầu độc lập của mình và đề xuất quan điểm về những vấn đề cần hòa giải, hướng giải quyết vụ án (nếu có);
Người khác tham gia phiên họp hòa giải (nếu có) phát biểu ý kiến;
Sau khi các đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trình bày hết ý kiến của mình, Thẩm phán xác định những vấn đề các đương sự đã thống nhất, chưa thống nhất và yêu cầu các đương sự trình bày bổ sung về những nội dung chưa rõ, chưa thống nhất;
Thẩm phán kết luận về những vấn đề các đương sự đã thống nhất, chưa thống nhất.
7.Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
Khi phiên hòa giải kết thúc, các đương sự đã tìm ra tiếng nói chung, đã thỏa thuận được với nhau giải pháp hợp lý để giải quyết vụ án, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đôi bên và được ghi lại trong biên bản hòa giải. Tuy nhiên, Bộ luật tố tụng dân sự quy định phải dành cho các bên đương sự một thời gian cần thiết nữa để họ suy nghĩ, cân nhắc lại tất cả những nội dung mà họ đã thỏa thuận giải quyết tranh chấp. Hết thời hạn đó mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến thì Tòa án mới ra quyết định công nhận.
Hết thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó thì Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải hoặc một Thẩm phán được Chánh án Tòa án phân công phải ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, Tòa án phải gửi quyết định đó cho các đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp.
Thẩm phán chỉ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án.
Trong trường hợp các đương sự có mặt thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì thỏa thuận đó chỉ có giá trị đối với những người có mặt và được Thẩm phán ra quyết định công nhận nếu không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt. Trường hợp thỏa thuận của họ có ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì thỏa thuận này chỉ có giá trị và được Thẩm phán ra quyết định công nhận nếu được đương sự vắng mặt tại phiên hòa giải đồng ý bằng văn bản.
Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự có hiệu lực pháp luật ngay sau khi được ban hành và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự chỉ có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu có căn cứ cho rằng sự thỏa thuận đó là do bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa, cưỡng ép hoặc vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội.